Công nghiệp phát triển kéo theo những chuyến biến cho nông nghiệp

     Trước kia, quặng được nấu trong những lò thấp và hở, do đó chỉ tạo ra được một loại sản phẩm mà ngưởi ta phải dùng búa để loại bỏ tạp chất. Vào thế kỉ XIV ở Xtiri (nước Áo) bắt đầu xuất hiện những lò cao hơn xây bằng gạch hoặc đá. Với những cái lò này, lúc đầu người ta chỉ mới luyện được gang rất giòn, chưa có thể dùng để rèn dụng cụ được, về sau, nhở sử dụng những quạt gió chạy bằng sức nước làm cho nhiệt độ trong lò tăng lên người ta đã luyện được một loại gang tốt hơn. Loại gang này đem nấu lại một lần nữa thì được sắt có chất lượng tốt. Kĩ thuật rèn sắt cũng được nâng cao nhờ có những búa tạ chuyển động bằng sức nước. Một số máy móc như máy khoan, máy mài… cũng đã ra đời vào thế kĩ XV.

     Sự tiến bộ lớn lao của nghề luyện kim kết hợp với việc truyền thuốc súng do người Trung Quốc phát minh sang châu Âu từ thế kỉ XIII đã dẫn đến sự phát triển mạnh mẽ của nghề chế tạo các loại vũ khí có sức công phá lớn như pháo và cạc loại súng tay.

Công nghiệp phát triển


     Đồng thởi, các ngành cồng nghiệp phục vụ sự nghiệp văn hoá cũng phát triển nhanh. Nghề làm giấy do ngưởi A Rập học được của người Trung Quốc đã truyền sang Tây Âu từ giữa thế kỉ XII đến thế kỉ XIV thì phát triển phố biến ở các nước Đức, Anh, Nêđeclan, Pháp V. V.. và do đó đã thay thế giấy da cừu vốn hiếm hoi và đắt tiền. Nghề in với những con chữ rời bằng kim loại cũng được áp dụng ở Tây Âu vào thế kỉ XV. Cũng vào thời kì này, đồng hồ – loại máy tự động đầu tiên – đã ra đời. Những tiến bộ kể trên càng tạo điều kiện thuận lợi cho sự truyền bá rộng rãi và phát triển không ngừng của các ngành khoa học kĩ thuật và do đó càng thúc đẩy sự phát triển nhanh chóng của lực lượng sản xuất.

     Những biến đổi mới về công nghiệp đã có ảnh hướng quan trọng đến sự phát triển của nông nghiệp. Chính sự tiến bộ của luyện kim và rèn sắt đã cung cấp cho nông nghiệp nhiều loại công cụ hoàn thiện. Vì thế, người ta có thể mở rộng diện tích canh tác bằng cách khai phá rừng rậm, làm khô đầm lầy. Đồng thời cũng nhờ có công cụ hoàn thiện và nhờ có phân bón mà năng suất cây trồng được tăng lên. Kết quả là lương thực , các loại nguyên liệu công nghiệp như gai, lanh, lông cừu V.V.. ngày càng phong phú.



Từ khóa tìm kiếm nhiều: sách lịch sử thế giới

Những cải tiến quan trọng trong quá trình lao động sản xuất

     Cho đến thế kỉ XVI, lao động thủ công vẫn là cơ sở của việc sản xuất, nhưng đồng thời trong lĩnh vực thủ công nghiệp đã có nhiều phát minh, nhiều cải tiến quan trọng, do đó đã thúc đẩy sức sản xuất phát triển nhanh chóng.

     Trong hoàn cảnh lịch sử lúc bấy giờ, sức nước là một nguồn năng lượng rất quan trọng, bởi vậy sự cải tiến guồng nước đã có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của nhiều ngành sản xuất. Kế thừa thời cổ đại, đến cuối thế kỉ XIV, guồng nước đã được hoàn thiện. Guồng nước cải tiến không cần đặt trên mặt sông mà có thể đặt ở bất cứ nơi nào thuận tiện cho việc lập các cơ sở sản xuất. Chỉ cần một kênh nhỏ dẫn nước từ trên cao đổ vào máng của guồng là có thể làm cho guồng quay với tốc độ nhanh. Năng lượng mới được sử dụng vào nhiều ngành sản xuất như xay hạt ngũ cốc, xẻ gỗ, ép dạ, nghiền quặng, khởi động các ống bễ để quạt lò luyện kim, chuyển động búa tạ để ép sắt v.v… Việc sử dụng rộng rãi năng lượng nước cho phép thay thế dần sức người và sức súc vật trong một số cơ sở sản xuất.

 lao động sản xuất


     Đồng thời với việc cải tiến và sử dụng rộng rãi guồng nước là những tiến bộ mới về kĩ thuật sản xuất trong các ngành công nghiệp. Trong nghề dệt len dạ, các khâu kéo sợi, dệt, nhuộm, ép… đều có những cải tiến rất lớn. Từ thế kỉ XIII, chiếc xa quay sợi bằng tay đã được phát minh để thay thế cho hòn chì xe chỉ thồ sơ. Đến cuối thế kỉ XV, người ta lại phát minh ra xa quay sợi tự đông có bàn đạp. Trong khâu dệt, chiếc khung cửi nằm ngang thay thế cho loại khung cửi dựng đứng được sử dụng trước kia. Khi đạp dạ thì dùng những chày lớn chuyển động bằng sức nước. Trong khâu nhuộm, ngoài chàm, người ta còn sử dụng nhiều nguyên liệu đưa từ phương Đông đến, do đó màu sắc hàng dệt phong phú và đẹp. Sự tiến bộ về kĩ thuật trong nghề dệt không những làm cho năng suất lao động tăng lên nhanh chóng mà còn tạo ra được nhiều loại sản phẩm mới chất lượng cao hơn trước. Ngoài len dạ, nghề dệt lụa và vải bông cũng bắt đầu phát triển ở Tây Âu.

     Nghề khai mỏ và luyện kim cũng phát triển mạnh, nhất là ở Đức, Ao, Tiệp Khắc, Hunggari V.V.. Trước kia người ta chỉ mới khai thác được những mỏ lộ thiên hoặc ở độ sâu không đáng kể. Nay nhở việc sử dụng các loại máy chuyển động bằng sức nước, sức gió…, người ta có thể khai thác quặng ở những hầm lò tương đối sâu. Công việc nghiền quặng, rửa quặng cũng được cơ giới hoá.



Sự ra đời của văn học thành thị và những thành tựu của nó

     Văn học thành thị ra đời vào khoảng giữa thế kỉ XII, khi tầng lớp thị dân đang ngày một lớn mạnh. Nguồn gốc của dòng văn học này cũng là dân ca và những truyện dân gian do những người thợ thủ công vốn là nông nô đưa từ nông thôn vào thành thị. Vì vậy loại văn học này viết bằng tiếng nói của nhân dân và nội dung mang tính chất chống phong kiến và chống giáo hội Thiên chúa rất rõ rệt.

     Văn học thành thị bao gồm các hình thức thơ, kịch, truyện ngắn và thưởng mang tính chất trào phúng nhằm đả kích giai cấp phong kiến, vạch trần sự tham lam và những hành vi xấu xa của tầng lớp giáo sĩ, đồng thời miêu tả sự thông minh tháo vát của nhân dân. Những truyện ngắn tương đối tiêu biểu là Di chúc của con lừa, Thầy lang vườn. “Di chúc của con lừa” kể chuyên một linh mục đã chôn con lừa của mình vào đất thánh của giáo hội nên bị phạt, nhưng theo lời trăng trối của con lừa đem nộp cho giáo chủ một số tiền nên được tha.

     “Thầy lang vườn” kể chuyện một nông dân làm cho một công chúa đang bị hóc xương bật cười mà khỏi. Từ đó cả thành phốđến nhờ anh ta chữa bệnh. Để khỏi bị quấy rầy, anh ta đi nói chuyện với từng người, yêu cầu người bị bệnh nặng nhất phải hy sinh minh để thiêu lấy tro chữa cho những ngưởi khác, vì vậy ai cũng báo mình không có bệnh nữa.

     Tác phẩm nổi tiếng nhất là Truyện con cáo, trong đó các con vật đã dược nhân cách hoá và tượng trưng cho các hạng người khác : sư tử đại biểu cho vua, gấu chó đại biểu cho lãnh chúa phong kiến, chó sói đại biểu cho kị sĩ, lừa đại biểu cho linh mục, con cáo xảo quyệt đại biểu cho thị dân, các loài vật nhỏ bé như gà, thỏ, ốc sên đại biểu cho nhân dân.

     Nội dung chủ yếu của truyện này nói về sự tranh chấp giữa con cáo Rơna (Renart) tinh khôn và con chó sói Idănggranh (Isengrin) ngu độn, đồng thời cũng đề cập đến sự hà hiếp của con cáo đối với những con vật nhỏ.

     Truyện con cáo lúc đó được đông đảo người đọc rất ưa thích và đã được dịch ra nhiều thứ tiếng Flăngđrơ, Anh, Đức, Italia. Người ta ham đọc truyện này đến nỗi các giáo chủ phải kêu lên rằng các tu sĩ thích xem Truyện con cáo hơn là truyện các thánh tử vì đạo.

     Kịch bản của thành thị bắt nguồn từ lối biểu diễn hoá trang của nhân dân và phần nhiều mang tính chất hài hước châm biếm. Tác phẩm nổi tiếng nhất lúc bấy giờ là kịch Rôhanh Mariông của Ađam đơ la Han (Adam de la Halle) (1238-1286), nội dung miêu tả mối tình giữa một chàng trai và cô gái chăn cừu. Đến nửa sau thế kỉ XII, ở miền Bắc nước Pháp xuất hiện một kiến trúc mới gọi là kiến trúc Gôtích. Đặc điểm của lối kiến trúc này là vòm cửa nhọn, nóc nhà nhọn, bên ngoài có tháp cao vút, tường tương đối mỏng, cửa sổ lớn và trang sức bằng nhiều loại kính màu làm cho trong nhà có đầy đủ ánh sáng. Trước cửa lại có nhiều bức phù điêu sinh động.

 thành thị


     Lối kiến trúc này rất phù hợp với yêu cẩu làm tăng thêm vẻ uy nghiêm của tôn giáo nên trước hết được áp dụng để xây dựng các giáo đường, ngoài ra còn được dùng để xây các công sở và dinh thự. Hơn nữa, với những tháp chuông cao vút hơn 100m có thể nhìn thấy từ xa, với sự trang trí đẹp đẽ bề thế của toàn bộ toà nhà, các công trình kiến trúc này không những thể hiện một bước tiến mới về nghệ thuật xây dựng mà còn thể hiện sức mạnh và sự giàu có của cư dân thành thị lúc bấy giờ. Do những ưu điểm đó, lối kiến trúc Gôtích này được áp dụng rộng rãi ở nhiều nước châu Âu như Pháp, Anh, Đức, Tây Ban Nha, Tiệp Khắc V.V..

     Tóm lại từ thế kỉ XI – XIII, tuy giáo hội Thiên chúa vẫn giữ vai trò lũng đoạn về tư tưởng nhưng về văn hoá đã đạt được những thành tựu nhất định. Tình hình đó là một trong những tiền để dẫn đến Phong trào văn hoá phục hưng, một bước phát triển nhảy vọt về văn hoá trong những thế kỉ sắp tới.



Từ khóa tìm kiếm nhiều: tim hieu ve lich su

Sự phát triển của văn học kị sĩ và thơ trữ tình của văn học Tây Âu

     Đến thời kì này, ngoài văn học dân gian bao gồm các bài hát, các truyện kể… và văn học Latinh (hay văn học nhà thở) bao gồm thơ, kịch, truyện viết bằng tiếng Latinh về đề tài tôn giáo, có hai loại văn học mới thể hiện sự phát triển của nền văn học Tây Âu là văn học kị sĩ và văn học thành thị.      Vào khoảng thế kỉ XII, do sự trưởng thành của mình và do chịu ảnh hưởng của văn minh thành thị, giai cấp quý tộc phong kiến Tây Âu đòi hỏi phải có một dòng văn học phục vụ cho đời sống tinh thần của mình. Trong hoàn cảnh ấy, có nhiều văn nhân du khách vào tận các lâu đài của các lãnh chúa, kể cho họ nghe những câu chuyện li kì của các hiệp sĩ, cũng có khi họ hát những bài ca ngợi ông chủ anh hùng khẳng khái, bà chủ diễm lệ yêu kiều. Hình thức sinh hoạt văn nghệ ấy làm cho cuộc sống tẻ nhạt của các lãnh chúa trong những lâu đài kín cổng cao tưởng trở nên vui vẻ. Do đó, các văn nhân ấy đã được các gia đình quý tộc nuôi làm thực khách để chuyên môn mua vui cho họ. Văn học kị sĩ vì thế mà có điều kiện phát triển.

     Văn học kị sĩ thường bắt nguồn từ những câu chuyện được lưu truyền trong nhân dân, những nhân vật chính trong đó được xây dựng thành một con người mang đầy đủ các tính cách của giới kị sĩ, đó là trung thành với lãnh chúa, ngoan đạo, tôn thờ người đẹp và dũng cảm trong chiến đấu, nhất là đối với dị giáo.

Văn học kị sĩ


     Văn học kị sĩ có thể chia thành hai loại chính là anh hùng ca và thơ trữ tình. Bài ca Rôlăng, Bài ca Xít, Bài ca Nibêlunghenlà những bản anh hùng ca tương đối nổi tiếng lúc bấy giờ.

- Bài cơ Rôtăng được sáng tác vào khoảng năm  100 ở Pháp, dựa vào câu chuyện dân gian kể về cuộc chiến tranh giữa Saclơmanhơ và người A Rập ở Tây Ban Nha năm 778.

     Sau khi vây đánh thành Xaragôxơ ở Tây Ban Nha do người A Rập thống trị thành công, người Frăng phải kí hoà ước với ngưởi A Rập để rút quân về nước. Nhưng do sự phán tróc của người A Rập, hậu quân của Sáclơmanhơ do Bá tước Rôlăng chi huy đã bị quân A Rập phục kích và tiêu diệt ở đèo Rôngxơvô thuộc vùng núi Pirênê. Trong giờ phút nguy nan ấy, Rôlăng đã tỏ ra hết sức trung thành với vua của minh và đã dũng cảm chiến đấu cho đến chết.

     Bài trường ca này dài 1400 câu.

- Bài ca Xít xuất hiện vào thế kỉ xu ở Tây Ban Nha, nội dung miêu tả sự đấu tranh giữa người Tây Ban Nha và ngưởi Ả Rập, trong đó bao gồm cả cuộc đấu tranh với Hồi giáo.

- Bài ca Nibêlunghen xuất hiện vào thế kỉ XI11 ở Đức, miêu tả sự đấu tranh của người Buốcgônhơ chống lại người Hung nô vào thế kỉ V

     Còn loại thơ trữ tình thì chủ yếu phát triển ở Đức và Pháp. Tình yêu lãng mạn say đắm và mạo hiểm kiểu kị sĩ là chủ đề của loại thơ này mà tác phẩm tiêu biểu nhất là Tơrixtăng và Ydơ.

     Bắt nguồn từ một truyền thuyết lưu hành trong các bộ lạc Xentơ và được bổ sung bằng một số chi tiết bắt chước câu chuyện cánh buồm đen và cánh buồm trắng trong thần thoại Êgiê, tác phẩm này miêu tả tình yêu mãnh liệt bất chấp tất cả của Tơrixtăng và Ydơ.



Từ khóa tìm kiếm nhiều: tim hieu lich su

Tìm hiểu về triết học kinh viện

     Triết học kinh viện là một thuật ngữ dịch từ chữ Scolasticustrong tiếng latinh nghĩa là triết học nhà trưởng, vì đó là môn học rất được chú trọng trong các trường đại học lúc bấy giờ.

     Vào thế kỉ XII, tại các đình vương quốc Noócmăngđi trên đảo Xixilia và ở Trường đại học Tôlêdô ở Tây Ban Nha, các học giả đã tiến hành phiên dịch những tác phẩm của Hy Lạp cổ đại đã được dịch ra tiếng A Rập, đồng thời còn dịch các tác phẩm bằng tiếng Hy Lạp được bảo tồn ở Bidantium.

     Việc dó đã làm cho sự hiểu biết của ngưởi Tây Âu càng được mở rộng. Nhưngcác nhà triết học kinh viện muốn khai thác các kiến thức ấy để phục vụ cho thần học, do đó đã vận dụng một cách xuyên tạc học thuyết của các triết gia Hy Lạp và Rôma cổ đại, nhất của Arixtôt. Người có thành tích lớn nhất về mặt này là Anbe (1 193-1280), một giáo sĩ người Đức. Ông đã chú thích loàn bộ các tác phẩm của Arixtôt thuộc các lĩnh vực lôgich học, siêu hình học, luân lí học, vật lí học, thiên văn học, địa lí học, động vật học, thực vật học ; qua đó chứng minh rằng giáo lí của đạo Kitô không hề trái ngược với triết học và khoa học tự nhiên. Chính vì sự hiểu biết uyên bác như vậy, nên ông dược gọi là Anbe “vĩ đại”.

     Triết học kinh viện có một đặc điểm là áp dụng phương pháp biện luận cực kì rắc rối, rất chú trọng lôgich hình thức. Nói chung, các nhà triết học kinh viện cho ràng, đối với các hiện tượng tự nhiên người ta không cần phái quan sát, thí nghiệm mà chỉ cần dùng phương pháp tư duy trừu tượng cũns có thể đạt đến chân lí.

     Tuy nhiên, trong khi nghiên cứu về vấn đề khái niệm chung, các nhà triết học kinh viện đã chia làm hai phái là phái duy danh(nominalisme) và phái du thực(réalisme). Phái duy danh cho rằng khái niệm chung do tư duy củacon người sáng tạo ra là tên gọi của các vật thể riêng lẻ và các vật thể riêng lẻ có trước khái niệm chung. Còn phái duy thực thì cho rằng trước khi có một vật thể nào đó thì khái niệm về vật thể ấy đã tồn tại, đã có thực rồi. Như vậy, duy thực là chủ nghĩa duy tâm hoàn toàn, còn duy danh là trường phái có nhân tố của chủ nghĩa duy vật. Chính vì thế, tuy vẫn tin Chúa, nhưng các nhà duy danh thường bị giáo hội ngược đãi và rút phép thông công, trái lại những ngưởi duy thực rất được đề cao, trong đó người tiêu biếu nhất là Ackinat (Thomas Acquittas), quen gọi là Tômát Đacanh (Thomas d’Aquin).

     Tômát Đacanh (1225-1274) là một giáo sĩ người Italia, là học trò của Anbe vĩ đại. Ông đã biên soạn nhiều tác phẩm trong đó quan trọng nhất là Thần học toàn thư(Somme Théologique). Tác phẩm này rất đồ sộ, được chia làm bốn phần, gồm 100 chương trong đó dùng quan điểm của giáo hội để giải quyết 1.000 vấn đề thần học và bác lại 10.000 thuyết. Ông cho rằng vũ trụ chia làm nhiều đẳng cấp, bắt đầu là phi sinh vật, dần dần lên đến người, tín đồ, thiên sứ, rồi cao nhất là Chúa trời. Mỗi một đẳng cấp thấp đều muốn vươn lên đẳng cấp cao, vì vậy cả hệ thống ấy đều hướng về Chúa Trời, Chúa là mục đích cuối cùng của vũ trụ.

     Tác phẩm này được giáo hội thừa nhân là một sự tổng kết về giáo lí của đạo Thiên chúa. Do công lao ấy, sau khi ông chết không lâu, đến đầu thê kỉ XIV, ông được giáo hội phong thánh.

     Trong số các nhà triết học kinh viện có một trưởng hợp ngoại lệ đặc biệt, đó là Rôgiơ Bêcơn (Roger Bacon, khoảng 1214-1292), một giáo sĩ ngưởi Anh và là Giáo sư Trường đại học Oxíớt.

     Trái với Tômát Đacanh, Rôgiơ Bêcơn rất chú ý nghiên cứu vật lí học và hoá học, rất coi trọng phương pháp thí nghiệm và đã có nhiều cống hiến về mặt quang học. Chính ông là người đầu tiên giải thích hiện tượng cầu vồng và cũng là người đầu tiên ở châu Âu đem thuốc súng áp dụng vào lĩnh vực quân sự. Ông đã biết chú ý đến từ tính của nam châm, rất đề cao toán học, coi đó là cơ sở không thể thiếu được của tất cả mọi tri thức.


Roger Bacon


     Đi trước thời đại của mình, ông có nhiều dự kiến thiên tài như người ta có thể chế tạo những loại kính “để ở cự li rất xa mà có thể đọc được những chữ rất nhỏ, phân biệt được những vật hết sức bé, quan sát các vì sao” ; có thể chế tạo được những chiếc thuyền đi biển và đi sông rất lớn mà chỉ cần một người điều khiển chứ không cần mái chèo. Ông cũng đã nghĩ đến chiếc xe bốn bánh chạy rất nhanh mà không cần ngựa kéo, nghĩ đến máy bay “người ngồi trong đó, cánh đập không khí bay như chim”, nghĩ đến cần trục, đến cầu không có cột v.v..

     Do những hiểu biết sâu rộng ấy, ông được gọi là “nhà bác học đáng khâm phục”, nhưng cũng vì những đề xuất mạnh dạn ấy, ông bị giáo hội kết tội là một tên phù thuỷ đề xướng dị đoan và bị bắt bỏ ngục. Mãi 14 năm sau ông mới được tha. Lúc đó, ông đã rất già yếu nên hai năm thì chết.Sang thế ki XIV, triết học kinh viện bắt đầu suy thoái. Từ đấy, các nhàtriết học kinh viện không nghiên cứu khoa học tự nhiên và cáctác phẩm cổ       điển nữa mà chỉ làm công viêc biên hô cho giáo lí của đaoThiên chúa,  đồng thời họ đấu tranh mạnh mẽ với những nhà khoa học của giai cấp tưsản mới ra đời tức là những ngưởi theo chủ nghĩa nhân văn


Từ khóa tìm kiếm nhiều: lịch sử thế giới trung đại
 
;