Giáo hội làm ảnh hưởng tiêu cực tới tư tưởng của đạo Kitô

     Song song với việc lũng đoạn về văn hoá giáo dục, giáo hội còn tích cực truyền bá hệ tư tưởng của đạo Kitô thởi trung đại mà trong đó chủ yếu là chủ nghĩa cấm dục. Người đặt cơ sở cho hệ tư tưởng này là Ôguxtin (Augustin, 354-430), Giám mục xứ Hippôn (ở Angiêri ngày náy).

     Lúc bấy giờ đế quốc Rôma đang lâm vào tình trạng khủng hoảng trầm trọng, có nhiều người cho rằng sở dĩ như vậy là vì người Rôma theo đạo Kitô nên bị thần trừng phạt. Ôguxtin bèn viết quyển “Thành phố của Chúa Trời” (La Cité de Dieu) để biện hộ cho đạo Kitô. Trong tác phẩm người ta mới được sống trong cảnh sung sướng mãi mãi, còn ở thế giới trần tục này thì đầy rẫy tội ác và đau khổ. Vì vậy, muốn giũ sạch mọi tội lỗi để sau khi chết linh hồn được cứu vớt và được lên thiên đưởng thì phải ăn chay, sám hối, cấm dục, thoát li khỏi cuộc sống trần tục đi, tu trong nhà tu kín. Hơn nữa, tất cả mọi thứ ở đời đều do Chúa Trời sắp đặt. Chỉ có những người bằng lòng với số phận của mình, ngoan ngoãn phục tùng, một lòng tin thờ Chúa thì mới mong được cứu vớt… Rõ ràng là quan điểm đó rất phù hợp với lợi ích của giáo hội và chế độ phong kiến, do đó đã được coi là nền tảng của hệ tư tưởng và quan điểm đạo đức của giáo hội Kitô thời trung đại. Cùng với tình trạng kém phát triển về văn hoá giáo dục, sự gieo rắc tư tưởng này đã có tác dụng kìm hãm rất lớn đối với tư tưởng và tình cảm của nhân dân trong non mười thế kỉ.

đạo Kitô


      Ngoài Anquyn còn có nhiều học giả các nước khác như Pie, Paolô ngưởi Italia nhà thơ Têôđunphơ (Theodulí), Eginha (Eginhard) ngưởi Tây Ban Nha V.V.. Do vậy, cung đình của Sáclơmanhơ trở thành trung tâm học thuật của Tây Âu lúc bấy giờ. Hơn nữa, trường học cung đình của Sáclơmanhơ đã có ảnh hưởng rất lớn đối với việc nâng cao chất lượng của các trường học của giáo hội trong cả nước. Vì vậy, các nhà sử học phương Tây đã gọi phong trào học thuật này là “Phong trào văn hoá phục hưng thởi Carôlanhgỉêng”

      Tuy nhiên, về thực chất thì phong trào học thuật này vẫn lấy thần học làm nội dung học tập chủ yếu, lấy cung đình và nhà thờ làm trung tâm, khác hẳn với phong trào văn hoá phục hưng lấy thành thị làm trung tâm ở Italia sau này. Hơn nữa, trình độ hiểu biết của các nhà trí thức lúc đó cũng còn rất thấp. Những tài liệu giáo khoa về Ngữ pháp, Tu từ học, Thiên văn học v.v… lúc bấy giờ thường được soạn dưới hình thức vấn đáp giữa thầy và trò và nôi dung của nó cũng thưởng rất ngộ nghĩnh. Đoạn đối thoại sau đây giữa Anquyn và hoàng tử Pêpanh, con thứ hai của Sáclơmanhơ là một ví dụ :

Pêpanh hỏi: Chữ cái là gì ?

Anquyn đáp : Là người lính gác của lịch sử.

p : Văn tự là gì ?

A : Là kẻ phản bội của linh hồn.

p : Cái gì sinh ra văn tự ?

A : Ngôn ngữ.

p : Ngôn ngữ là gì ?

A : Là cái roi của không khí

P : Không khí là gì ?

A : Là kẻ bảo vệ tính mệnh con người

P : Con ngưởi là gì ?

A : Là nô lệ của tuổi già, là người qua đường, là khách ở trong nhà mình

P : Con người giống cái gì ?

A : Giống quả cầu.

p : Con người được xếp đặt như thế nào ?

A : Như ngọn đèn trước gió.

     Thời gian tồn tại của cái gọi là “Phong trào văn hoá phục hưng thời Carôlanhgiêng” cũng rất ngắn ngủi. Sau khi Sáciơmanhơ chết (năm 814) không bao lâu, đế quốc do ông thành lập không duy trì được sự thống nhất nữa và sự phát triển tạm thời về văn hoá cũng suy sụp.



 
;